Nấm mang, là một trong những bệnh cực phổ biến gây tổn hại lớn đến người nuôi cá Koi và đến nay vẫn chưa có thuốc đặc trị hiệu quả. Bài viết này sẽ chỉ ra những nguyên nhân, sai lầm khi bị nấm mang và một số cách phòng tránh để người nuôi có một tâm thế phòng bệnh sao cho hiệu quả.
Contents
- 1 Nguyên nhân gây bệnh nấm mang ở cá Koi
- 2 Những sai lầm khi bị nấm mang ở cá Koi
- 3 Những dấu hiệu nhận biết khi cá Koi bị nấm mang?
- 4 Cần làm gì khi hồ cá Koi nhiễm Virus nấm mang?
- 5 Cách phòng bệnh nấm mang ở cá Koi
- 5.1 Xử lý ao nuôi:
- 5.2 Xử lý cá Koi mua từ các nguồn
- 5.3 Các bước tắm cá Koi phòng bệnh, tăng đề kháng
- 5.4 Sử dụng các chế phẩm vi sinh
- 5.5 Xử lý diệt khuẩn định kỳ
- 5.6 Sử dụng đèn UV diệt khuẩn
- 5.7 Nguồn thức ăn cho cá Koi
- 5.8 Độ pH và độ kiềm (độ cứng cabonat) ao nuôi cá Koi
- 5.9 Hệ lọc trong ao nuôi cá Koi
Nguyên nhân gây bệnh nấm mang ở cá Koi
- Tác nhân gây bệnh là Virus Herpes thuộc họ Herpesviridae.
- Điều kiện môi trường biến động (pH, nhiệt độ, mật độ khuẩn,….) làm giảm sức đề kháng của cá. Môi trường thay đổi là điều kiện thuận lợi cho các bào tử virus nấm mang phát triển.
- Cá Koi khi mua từ các ao khác đã mang mầm bệnh Virus Herpes từ bên ngoài vào ao nuôi
Những sai lầm khi bị nấm mang ở cá Koi
- Thuốc đặc trị nấm mang: hiện tại vẫn chưa có thuốc nào đặc trị nấm mang. Cá mắc bệnh gần như 100% sẽ chết.
- Cloramin T: Cloramin T là một chất diệt khuẩn, không phải là thuốc đặc trị. Sử dụng Cloramin T chỉ có tác dụng diệt khuẩn trong một thời gian ngắn. Sau một thời gian “bào tử” virus gặp điều kiện thuận lợi sẽ phát triển trở lại gây bệnh. Vì Cloramin T khá độc với môi trường ao cá nên đôi khi sử dụng quá liều có thể gây chết, sử dụng thiếu thì không mang lại hiệu quả.
- Cá bị nhiễm bệnh để luôn cá trong hồ sử dụng thuốc trực tiếp. Cá khi bị nhiễm bệnh nên tách bầy vì khả lăng lây nhiễm của virus cực kỳ cao, nếu không xử lý khả năng cá trong hồ sẽ chết toàn bộ sau 24 – 48h.
Những dấu hiệu nhận biết khi cá Koi bị nấm mang?
- Cá bị bệnh nấm mang có các tơ mang sưng to, tiết dịch nhầy dính chúng lại với nhau, quan sát trên mang thấy những sợi trắng.
- Hoạt động của hô hấp của mang trở nên khó khăn, cá thường nổi đầu, bơi chậm chạp, hay tập trung ở dòng nước chảy và bỏ ăn.
- Mắt thưỡng lõm vào trong, thối đuôi, thối mang.
- Thân cá tuột nhớt, đỏ mình, có những nốt phồng rộp
Cần làm gì khi hồ cá Koi nhiễm Virus nấm mang?
- Việc cấp thiết nhất là vớt cá bệnh ra khỏi ao càng sớm càng tốt tránh nhiễm chéo những con khác.
- Tránh cho ăn trong thời gian này.
- Kiểm tra nhiệt độ ao nuôi, nếu nhiệt độ dưới 27oC hãy tăng nhiệt độ lên từ 28 – 30oC ở nhiệt độ này khả năng hoạt động Virus sẽ kém đi. Có thể sử dụng vôi nóng để tăng nhiệt độ nước hoặc sử dụng máy nén đưa khí nóng xuống đáy ao.
Cách bón vôi Ca(OH)2: sử dụng liều 2kg/100m2 ao nuôi để tăng nhiệt độ và pH ao lên 8.5-9. Tuy nhiên cần lưu ý tránh để pH nước vượt quá 9.
Vệ sinh lọc: khả năng bào tử virus bám trong các lõi lọc tạo nên ổ bệnh.
Diệt khuẩn ao nuôi bằng Nano Tum+. Sử dụng nano bạc diệt khuẩn an toàn và hiệu quả hơn nhiều so với Cloramin T. Nano bạc sẽ không có tác dụng ngay lập tức mà cần thời gian từ 4-6h để có hiệu quả, tuy nhiên do hiệu quả tiết chậm của hạt nano, nó có khả năng duy trì tác dụng diệt khuẩn lên tới 48h – giúp diệt triệt để những “bào tử” trong ao nuôi.
Tham khảo: Nano bạc là gì?
Cách phòng bệnh nấm mang ở cá Koi
Đối với Virus nấm mang cần có những biện pháp phòng bệnh tránh những tổn thất không đáng có.
Xử lý ao nuôi:
- Xử lý ao bằng vôi sau đó phơi hồ từ 5 – 7 ngày.
- Sau đó, diệt tạp bằng các chất diệt khuẩn như Cloramin T, TCCA, BKC, Iotdine,…….
- 2 ngày trước khi xây dựng hệ vi sinh nên diệt khuẩn bằng nano bạc Tum+.
Tham khảo: Chế phẩm vi sinh xử lý ao nuôi cá Koi
Xử lý cá Koi mua từ các nguồn
Để hạn chế khả năng lây nhiễm từ những nguồn bên ngoài, cá Koi khi mua về nên được xử lý diệt khuẩn.
Pha nano bạc Tum+ một lượng thích hợp theo bảng tính. Sau đó cho cá Koi tắm trong ao hoặc bể xử lý 30 phút trước khi thả xuống ao nuôi.
Vì nano bạc là chất diệt khuẩn có tính an toàn, nhỡ có sử dụng quá liều 30 – 50 lần vẫn không ảnh hưởng đến cá nuôi.