Trong quá trình nuôi thâm canh, thức ăn được sử dụng nhiều hơn, tôm hấp thụ không hết dẫn đến dư thừa và tích tụ thành bùn ở đáy ao. Các chất dinh dưỡng trong thức ăn thừa, trong phân tan ra và làm ô nhiễm nước ao. Đáy ao bị ô nhiễm cũng các tác nhân gây bệnh cho tôm trú ẩn và sinh sản. Vậy bùn đáy ao nuôi tôm có hại như thế nào? Cách xử lý ra làm sao?
Contents
Bùn đáy ao nuôi tôm là nơi trú ẩn của mầm bệnh
Bùn đáy ao giàu chất hữu cơ kết hợp với môi trường kỵ khí ở đáy ao sẽ tạo ra một điều kiện lý tưởng cho vi sinh vật gây bệnh sinh sổi nảy nở hoặc tạo ra các khí độc hại. Khi bùn đáy ao bị xáo trộn – ví dụ như do người nuôi tôm di chuyển bên trong ao – các vi sinh vật này lơ lửng giống trong một đám mây các hợp chất độc hại. Khi ở trạng thái lơ lửng, cả các hợp chất độc hại và mầm bệnh đều có nhiều khả năng gây hại cho tôm.
Bùn đáy ao nuôi
Trong thực tế là không thể có một môi trường nuôi trồng thủy sản 100% hiếu khí. Các vùng kỵ khí nhỏ và trung bình trong ao là khá phổ biến, ngay cả khi mức oxy hòa tan (DO) trong nước cao. Môi trường kỵ khí hiện diện bên trong hầu hết các màng sinh học (lớp nhớt của vi sinh vật bám trên bề mặt bạt) vì oxy chỉ có thể xuyên qua lớp mỏng trên cùng của màng sinh học.
Để cải thiện môi trường sống cho tôm, nên hạn chế các vùng kỵ khí tiềm ẩn bằng cách đảm bảo luôn duy trì mức DO cao. Mức DO cao giúp quần thể vi sinh vật hiếu khí trong nước loại bỏ các hợp chất độc hại, giảm thiểu bùn kỵ khí được sản sinh ra, nhờ đó giảm thiểu tác hại của bùn kỵ khí.
Bùn đáy ao nuôi tôm làm sản sinh các khí độc có hại
Trong bùn đáy ao tôm rất giàu các vi khuẩn kỵ khí. Chúng phân hủy chất hữu cơ mà không sử dụng oxy. Vi khuẩn kỵ khí lấy năng lượng từ việc khử các hợp chất vô cơ bị oxy hóa như nitrat (NO3 -) hoặc sunfat (SO4 =), tạo ra các chất không bị oxy hóa hoàn toàn, chẳng hạn như rượu, xeton và axit hữu cơ. Ngoài ra, quá trình kỵ khí của vi sinh vật có thể tạo ra một số chất có độc tính cao đối với tôm cá, chẳng hạn như amoniac, nitrit và hydro sulfua (Bảng 1).
Quá trình chuyển đổi kỵ khí của nitrat thành nitrit và amoniac gây hại với tôm cá. Khi nồng độ các chất này tăng lên, tôm sẽ bị căng thẳng và suy yếu hệ miễn dịch, dẫn đến bệnh tật và thậm chí chết đi nếu ở nồng độ cao. Hydrogen sulfide là một chất diệt khuẩn, ảnh hưởng đến cơ chế hấp thụ oxy bên trong tế bào bằng cách liên kết với các nhóm kim loại nặng trong hệ thống cytochrome. Vì nó ảnh hưởng tiêu cực đến hô hấp ở tôm, khi ở nồng độ dưới mức gây chết, nó làm suy yếu hệ thống miễn dịch của tôm và khiến tôm dễ mắc bệnh hơn.
Bảng 1. Quá trình kỵ khí của nitrogen and sulfur
Quá trình | Nguyên liệu | Sản phẩm | Ảnh hưởng lên tôm cá |
Quá trình phản nitrat hóa | Nitrat (NO3-) | Khí Nitơ (N2) Nitrit (NO2-) |
Có lợi Có hại |
Hô hấp nitrat | Nitrat (NO3-) | Nitrite Ammonia (NH3) |
Có hại Có hại |
Khử Sulfur | SOx, Sulfur | Hydrogen Sulfide (H2S) | Có hại |
Quá trình chuyển đổi kỵ khí của nitrat thành nitrit và amoniac gây hại với tôm cá. Khi nồng độ các chất này tăng lên, tôm sẽ bị căng thẳng và suy yếu hệ miễn dịch, dẫn đến bệnh tật và thậm chí chết đi nếu ở nồng độ cao. Hydrogen sulfide là một chất diệt khuẩn, ảnh hưởng đến cơ chế hấp thụ oxy bên trong tế bào bằng cách liên kết với các nhóm kim loại nặng trong hệ thống cytochrome. Vì nó ảnh hưởng tiêu cực đến hô hấp ở tôm, khi ở nồng độ dưới mức gây chết, nó làm suy yếu hệ thống miễn dịch của tôm và khiến tôm dễ mắc bệnh hơn.
Xem thêm: Giải pháp hiệu quả để kiểm soát khí độc trong ao nuôi tôm cá
Cách xử lý bùn đáy ao nuôi tôm
Canh nhá cho tôm ăn vừa đủ, tránh dư thừa thức ăn sản sinh bùn đáy:
Napaumpaiporn và Churcild (2013), trong một nghiên cứu tôm L. Vannamei đã so sánh hiệu quả của ba phương pháp cho ăn:
(1) cho ăn thủ công bốn lần một ngày; (2) cho ăn tự động dùng bộ đếm giờ; và (3) cho ăn tự động bằng bộ dò âm thanh phát ra khi đang cho tôm ăn. Các thí nghiệm được thực hiện trong các ao diện tích 1 ha, thả 75 con/m2.
Kết quả thực nghiệm sau 120 ngày cho thấy mức độ tôm tăng trưởng hàng ngày của phương pháp 2 và 3 là 0,21 và 0,24 g/ngày, cao hơn đối với phương pháp 1 (0,18 g/ngày). Trọng lượng cuối cùng của tôm áp dụng phương pháp 3 là 24,5 g, lớn hơn đáng kể so với phương pháp 1 (15,9 g). Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn cao nhất ở phương pháp 1 (1,6), cao hơn đáng kể so với phương pháp 2 (1,4) và phương pháp 3 (1,3).
Cho ăn tự động tăng hiệu suất 10% so với việc rải thức ăn thủ công. Để có mức cho ăn hợp lý, bạn cũng cần tham khảo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Duy trì mức DO cao trong suốt thời gian nuôi
Duy trì nồng độ DO cao (>4mg/L) trong nước là vô cùng quan trọng cho sự sống còn của tôm. Ở mức DO thấp, tôm bị căng thẳng, không tiêu hóa thức ăn hiệu quả và dễ bị bệnh.
Mức DO cao sẽ giúp thay đổi thành phần của quần thể vi sinh vật, lúc này vi khuẩn hiếu khí sẽ chiếm ưu thế. Các vi sinh vật gây bệnh thường là kỵ khí hoặc kỵ khí tùy nghi, vì chúng sống và tồn tại trong cơ thể tôm – một môi trường nghèo oxy. Do đó, duy trì hàm lượng DO cao trong ao sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quần thể vi sinh vật không gây bệnh chiếm ưu thế.
Nếu lượng oxy được cung cấp nhiều (như trong các ao thâm canh). Bùn sẽ lơ lửng (ngăn chặn sự tích tụ của nó ở đáy) và làm thức ăn cho tôm dưới dạng các bông vi sinh vật (biofloc).
Đảm bảo đủ mật độ vi khuẩn hiếu khí để cạnh tranh với vi khuẩn kỵ khí
Vi khuẩn được chia thành ba nhóm, dựa trên nhu cầu oxy tự do. Các vi sinh vật kỵ khí có thể phát triển và sinh sản khi không có oxy. Chúng chiếm phần lớn trong số các vi sinh sống trong ao tôm. Các vi sinh vật kỵ khí không thể phát triển và sinh sản trong điều kiện có oxy. Chúng hiện diện hầu hết trong các vùng yếm khí và các góc ao. Các vi sinh vật hiếu khí thì cần oxy để phát triển và sinh sản.
Để tăng mật độ vi khuẩn hiếu khí và làm sạch nước, bạn có thể bổ sung vi sinh xử lý nước BioFix AQT với mật độ 5 tỷ/gram. Ngoài xử lý chất hữu cơ dư thừa, cải thiện độ trong và chất lượng nước.